Đó là chia sẻ của Thiếu tướng, PGS-TS Hoàng Văn Phai, Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng trong cuộc trao đổi với Thể thao và Văn hóa (TTXVN) nhân dịp Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Mở đầu cuộc trò chuyện, Thiếu tướng, PGS, TS Hoàng Văn Phai phân tích:
– Giá trị đầu tiên và xuyên suốt chính là tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường. Từ thuở các vua Hùng dựng nước, đến những chiến công của Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…, lòng yêu nước đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Trong kháng chiến chống Mỹ, tinh thần ấy được nâng lên tầm cao mới với khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Hình ảnh những người lính “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, những thanh niên xung phong “Ba sẵn sàng”, những phụ nữ “Ba đảm đang”… đã trở thành biểu tượng bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Cả dân tộc đồng lòng với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước”, tạo nên sức mạnh tinh thần vô địch.
Tinh thần kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm là giá trị cốt lõi làm nên chiến thắng. Đại thắng mùa Xuân 1975 là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khẳng định tinh thần kiên cường, bất khuất của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cả dân tộc đã đoàn kết một lòng, vượt qua muôn vàn gian khổ để giành thắng lợi cuối cùng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch cuối cùng của cuộc Tổng tiến công chiến lược, thể hiện sức mạnh quân sự tài tình cùng khát vọng hòa bình mãnh liệt. Quân và dân ta từ khắp mọi miền đất nước đồng loạt tiến công, đập tan mọi âm mưu chia cắt, giành lại trọn vẹn non sông. Từ Tây Nguyên đến Huế – Đà Nẵng, rồi giải phóng Sài Gòn, mỗi bước tiến đều in đậm dấu ấn của lòng dũng cảm và trí thông minh.
Thắng lợi này không chỉ kết thúc 30 năm chiến tranh ác liệt mà còn mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần bất khuất, sự hy sinh cao cả của bao thế hệ mãi là bài học quý, nhắc chúng ta phải luôn gìn giữ và phát huy truyền thống anh hùng. Đại thắng mùa Xuân 1975 mãi là niềm tự hào, minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam khi đoàn kết đấu tranh vì chính nghĩa. Phát huy tinh thần ấy, chúng ta tiếp tục xây dựng đất nước vững mạnh, bảo vệ nền độc lập thiêng liêng, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Như ông phân tích, chiến thắng này là thể hiện sức mạnh quân sự tài tình cùng khát vọng hòa bình mãnh liệt. Ông có thể nói kỹ hơn về mặt quân sự?
– Nghệ thuật quân sự đặc sắc là giá trị nổi bật tiếp theo. Kế thừa truyền thống “lấy ít địch nhiều” từ thời Trần Hưng Đạo với chiến thuật “vườn không nhà trống”, đến Nguyễn Trãi với tư tưởng “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”, trong kháng chiến chống Mỹ, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên tầm cao mới.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của sự kết hợp giữa chiến tranh nhân dân và chiến tranh hiện đại. Chúng ta đã phát huy thế mạnh của “đánh nhanh, thắng nhanh” nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc “đánh chắc, tiến chắc”.
Tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” trong cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân năm 1975, là nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh sắc sảo, linh hoạt, hiệu quả của Đảng ta, góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại.
Việc sử dụng phương châm “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” trong các chiến dịch Tây Nguyên… đến chiến dịch Hồ Chí Minh tiến thẳng vào Sài Gòn khiến đối phương không kịp trở tay, tạo nên một trong những chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn thành công nhất trong lịch sử.
Cùng với tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường; tinh thần kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm; nghệ thuật quân sự đặc sắc, còn những giá trị nào nữa làm nên chiến thắng, thưa Thiếu tướng?
– Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn nội lực làm nên chiến thắng. Tư tưởng lấy dân làm gốc đã trở thành truyền thống đạo lý xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam và được các bậc minh quân, trung thần, các bậc tiền nhân vận dụng rất thành công trong quá trình dựng nước và giữ nước. Vua Lý Công Uẩn vì “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân” mà dời đô về Thăng Long, cốt để “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ”. Lý Thường Kiệt từng nói, “đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn rất coi trọng việc “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, Nguyễn Trãi luôn xem “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”… đến thời đại Hồ Chí Minh, bài học về sức mạnh đại đoàn kết tiếp tục được phát huy cao độ.
Trong mùa Xuân 1975, khối đại đoàn kết toàn dân đã tạo nên sức mạnh tổng hợp với sự tham gia của cả nước: hậu phương lớn miền Bắc chi viện sức người sức của, nhân dân miền Nam nổi dậy đồng loạt, lực lượng vũ trang ba thứ quân phối hợp nhịp nhàng. Những khẩu hiệu “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” đã trở thành hiện thực sinh động.
Văn hóa khoan dung, nhân đạo là nét đẹp làm nên bản sắc văn hóa quân sự Việt Nam. Kế thừa truyền thống “đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại” của cha ông, sau Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng ta đã thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, không trả thù những người từng ở phía bên kia chiến tuyến. Hàng trăm ngàn quân nhân và viên chức chế độ cũ được đối xử nhân đạo, tạo điều kiện hòa nhập, cùng nhau xây dựng đất nước. Đây chính là sự thể hiện sinh động của tư tưởng nhân văn “lấy chí nhân thay cường bạo” trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tư duy chiến lược tầm nhìn xa là giá trị đặc sắc. Người Việt Nam không chỉ giỏi chiến đấu mà còn biết kết thúc chiến tranh đúng lúc. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự và đàm phán ngoại giao (Hiệp định Paris 1973), biết chớp thời cơ lịch sử để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của tư duy chiến lược: biết tập trung lực lượng vào thời điểm then chốt, đánh vào trung tâm đầu não khi địch suy yếu nhất.
Đại thắng mùa Xuân 1975 thực sự là bản anh hùng ca tỏa sáng các giá trị văn hóa quân sự Việt Nam, kết tinh từ truyền thống hàng ngàn năm và được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Những giá trị ấy không chỉ làm nên chiến thắng lịch sử mà còn là bài học quý cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay; là di sản tinh thần vô giá mà các thế hệ cha anh đã để lại cho thế hệ mai sau.
Tinh thần đoàn kết quân – dân là biểu tượng cao đẹp của văn hoá quân sự Việt Nam. Vậy Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kế thừa, phát huy đến đỉnh điểm nét văn hoá quân sự đặc sắc đó như thế nào, thưa Thiếu tướng?
– Trong dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc, tinh thần đoàn kết quân – dân luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, trở thành nét đẹp văn hóa quân sự đặc trưng của Việt Nam. Truyền thống “cả nước đánh giặc” đã được cha ông ta đúc kết từ ngàn đời nay. Từ thời Trần Hưng Đạo với lời hiệu triệu “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”, đến Nguyễn Trãi với tư tưởng “Lấy dân làm gốc”, lịch sử dân tộc luôn khẳng định một chân lý: không có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh của nhân dân. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong chiến dịch mùa Xuân 1975, bài học ấy được phát huy đến mức cao độ và toàn diện nhất.
Sức mạnh của khối đoàn kết quân – dân trong Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 được thể hiện rõ nét qua sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng. Bộ đội chủ lực với những đòn tiến công thần tốc, bất ngờ từ các hướng, trong khi lực lượng vũ trang địa phương và du kích phối hợp nổi dậy giành quyền kiểm soát từng thôn xóm, ấp chiến lược. Hậu phương lớn miền Bắc không ngừng chi viện sức người, sức của với hàng vạn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến ngày đêm mở đường Trường Sơn huyền thoại, vận chuyển vũ khí, lương thực vào chiến trường. Cả nước trở thành một trận tuyến thống nhất, tạo nên sức mạnh áp đảo trước kẻ thù.
Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là minh chứng rõ nhất cho nghệ thuật chiến tranh nhân dân đặc sắc của Việt Nam. Ở đây, “nổi dậy” đi đôi với “tiến công” tạo thành một chỉnh thể thống nhất không thể tách rời. Khắp các tỉnh thành miền Nam, nhân dân đã nổi dậy phá thế kìm kẹp của địch, dẫn đường cho bộ đội, phối hợp đánh chiếm các mục tiêu then chốt. Lực lượng “ba mũi giáp công” (chính trị, quân sự, binh vận) hoạt động đồng bộ đã làm tan rã ý chí chiến đấu của đối phương. Điển hình như ở Huế – Đà Nẵng, quần chúng nổi dậy biểu tình rầm rộ kết hợp với binh vận đã khiến hàng ngàn binh lính ngụy quân buông súng đầu hàng. Đây chính là sự kế thừa và phát triển lên tầm cao mới của truyền thống “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn” từ thời cha ông.
Những hình ảnh về sự gắn bó máu thịt giữa quân và dân trong mùa Xuân 1975 đã trở thành biểu tượng bất hủ. Đó là hình ảnh nhân dân che giấu, nuôi dưỡng bộ đội ngay trong lòng địch; là những đoàn dân công hỏa tuyến không quản ngại hiểm nguy vận chuyển vũ khí, lương thực ra mặt trận; là những người thợ sửa chữa vũ khí ngày đêm làm việc để kịp thời phục vụ chiến đấu. Đặc biệt, hình ảnh xe tăng quân giải phóng được nhân dân chào đón, dẫn đường vào Dinh Độc Lập đã trở thành biểu tượng đẹp nhất của tinh thần “quân với dân một ý chí”.
Đại thắng mùa Xuân 1975 đã khẳng định những giá trị vĩnh hằng: đoàn kết quân – dân chính là sức mạnh vô địch, thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa quân sự Việt Nam – lấy nhân dân làm trung tâm, hoàn toàn khác biệt với các cuộc chiến tranh xâm lược chỉ dựa vào sức mạnh vũ khí công nghệ cao.
Ngày nay, tinh thần đoàn kết quân – dân tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, như lời Bác Hồ đã dạy: “Quân với dân như cá với nước”. Đó là di sản quý báu nhất mà Đại thắng mùa Xuân 1975 đã để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Chiến thắng này mãi mãi là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là bài học vô giá về phát huy sức mạnh tổng hợp giữa truyền thống và hiện đại trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trong lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước, tổ tiên ta đã để lại truyền thống quý báu trong kết hợp giữa đánh thắng địch về quân sự với khôn khéo trong ứng xử chính trị và nhân văn với kẻ thù trong chiến tranh. Từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975, xin Thiếu tướng có thể phân tích về truyền thống quý báu ấy?
– Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hình thành nên một truyền thống quý báu – nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh quân sự với sự khôn khéo trong ứng xử chính trị và tinh thần nhân văn với kẻ thù. Đại thắng mùa Xuân 1975 là đỉnh cao của sự kế thừa và phát triển truyền thống ấy, đã để lại những bài học sâu sắc về nghệ thuật chiến tranh toàn diện của dân tộc ta.
Từ thuở các vua Hùng dựng nước, cha ông ta đã ý thức rõ “dĩ bất biến ứng vạn biến” – lấy cái bất biến là độc lập dân tộc để ứng phó với mọi tình huống. Những tư tưởng “Binh quý hồ tinh bất quý hồ đa”, coi trọng chất lượng hơn số lượng đến triết lý “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” là cội nguồn tư tưởng cho cách ứng xử vừa kiên quyết vừa nhân văn của chúng ta trong chiến tranh.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh, bài học này được vận dụng sáng tạo. Ngay từ khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ mục tiêu: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, nhưng đồng thời luôn mở đường cho đối phương “rút lui trong danh dự”. Đây chính là sự kế thừa tư tưởng “mở đường hiếu sinh” của cha ông – đánh thắng nhưng không tiêu diệt hoàn toàn, để lại lối thoát cho kẻ thù.
Về quân sự, các chiến dịch từ chiến dịch Tây Nguyên cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tài nghệ thao lược kiệt xuất, phát huy cao độ sức mạnh của chiến tranh nhân dân, luôn chú trọng công tác binh vận. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, nhờ chính sách khoan hồng của ta mà hàng chục vạn binh lính ngụy quân đầu hàng. Về chính trị, chúng ta đã khéo léo kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao. Hiệp định Paris 1973 là một thắng lợi lớn về chính trị, tạo tiền đề quan trọng cho thắng lợi cuối cùng. Ngay cả khi tiến hành cuộc tổng tiến công chiến lược, ta vẫn duy trì kênh ngoại giao, tránh để quốc tế hiểu nhầm về cuộc chiến của chúng ta.
Bài học từ Đại thắng mùa Xuân 1975 cho thấy: Thắng lợi quân sự chỉ thực sự trọn vẹn khi kết hợp được với thắng lợi về chính trị và đạo lý. Chúng ta đánh Mỹ không phải vì thù hận, mà vì độc lập dân tộc; đánh ngụy không phải để trả thù, mà để thống nhất đất nước.
Đó là cốt cách văn hóa Việt Nam – kiên cường trong chiến đấu nhưng nhân văn trong chiến thắng. Ngày nay, truyền thống quý báu ấy vẫn còn nguyên giá trị. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta vẫn kiên định nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kết hợp sức mạnh quốc phòng với đường lối đối ngoại mềm dẻo, nhân văn. Bài học từ mùa Xuân 1975 mãi mãi là tài sản vô giá, góp phần hun đúc nên bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại mới.
Đại thắng mùa Xuân 1975 còn là thắng lợi của chính nghĩa, vì lương tri, vì phẩm giá của con người trên tinh thần “đất nước được độc lập, nhân dân được tự do”. Theo Thiếu tướng, tinh thần ấy có phải là điểm hội tụ để Việt Nam chúng ta luôn phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân trên mọi “mặt trận”, đặc biệt là trong quan hệ quốc tế?
– Đại thắng mùa Xuân 1975 mãi mãi là bản anh hùng ca chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, không chỉ bởi tầm vóc vĩ đại của một chiến thắng quân sự mà còn ở ý nghĩa sâu sắc của một thắng lợi chính nghĩa, vì lương tri và phẩm giá con người. Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đúc kết một chân lý bất diệt: khi cuộc chiến đấu vì chính nghĩa, vì độc lập tự do thì dù phải đối mặt với kẻ thù mạnh hơn gấp bội vẫn có thể chiến thắng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đúng với các giá trị phổ quát của nhân loại – quyền tự quyết của các dân tộc, quyền con người được sống trong hòa bình và độc lập. Vì vậy, dù phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, chúng ta vẫn nhận được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, sức mạnh chính nghĩa ấy được thể hiện sinh động qua hình ảnh những người lính giải phóng tiến vào Sài Gòn và được nhân dân đón chào như những người anh hùng cứu nước; qua thái độ khoan hồng nhân đạo với quân địch đầu hàng; qua chính sách hòa hợp dân tộc sau ngày thống nhất. Đó là sự kế thừa và phát triển truyền thống “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” từ ngàn đời của cha ông ta.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp ấy càng trở nên quý giá. Việt Nam đã và đang khẳng định vị thế trên trường quốc tế bằng chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ. Từ một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, chúng ta đã vươn lên trở thành thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế, tham gia sâu rộng vào các tổ chức khu vực và toàn cầu như Liên Hợp Quốc, ASEAN, WTO. Đặc biệt, hình ảnh Việt Nam hòa bình, ổn định, năng động, thịnh vượng và phát triển đang ngày càng được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Thành công trong quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện nay chính là sự tiếp nối truyền thống “vừa đánh vừa đàm”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại như trong kháng chiến. Chúng ta kiên quyết bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nhưng đồng thời luôn chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Chúng ta tích cực tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, đóng góp trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề toàn cầu. Đó chính là cách chúng ta phát huy sức mạnh mềm văn hóa, khẳng định vị thế của một quốc gia yêu chuộng hòa bình, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Tinh thần chính nghĩa của dân tộc Việt Nam “Đem đại nghĩa thắng hung tàn/ Lấy chí nhân thay cường bạo” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay cần phải được thấm nhuần như thế nào, thưa Thiếu tướng?
– Tư tưởng “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” trong lịch sử dân tộc không chỉ là ánh sáng soi đường trong các cuộc kháng chiến cứu nước mà còn là kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới. Trong bối cảnh đất nước đang đứng trước cả thời cơ và thách thức, tinh thần này cần được thấm nhuần sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tinh thần “đại nghĩa” thể hiện ở việc kiên quyết nhưng khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta kiên định bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, kiên trì đấu tranh ngoại giao và pháp lý. Cách ứng xử này đã giúp Việt Nam nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế, khẳng định hình ảnh một quốc gia yêu chuộng hòa bình nhưng kiên quyết bảo vệ lợi ích chính đáng.
Trong phát triển kinh tế – xã hội, “chí nhân” được thể hiện qua mô hình phát triển lấy con người làm trung tâm. Các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống nhân dân chính là sự hiện thực hóa tư tưởng nhân văn đó. Trong đại dịch Covid-19, tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” đã trở thành phương châm hành động của cả hệ thống chính trị. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tích cực, chủ động, kiên quyết thực hiện một cuộc cách mạng chưa từng có là sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, giảm tầng nấc trung gian, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý vì một Việt Nam phát triển hùng cường, thịnh vượng, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Về xây dựng hệ thống chính trị, “đại nghĩa” thể hiện ở sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong khi “chí nhân” được thể hiện qua việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân. Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua đã cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa tính kiên quyết và tính nhân văn – nghiêm trị những kẻ phạm tội nhưng đồng thời tạo điều kiện cho họ sửa chữa lỗi lầm.
Trên trường quốc tế, Việt Nam đã và đang khẳng định vị thế bằng chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và phát triển. Việc tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, đóng góp vào giải quyết các vấn đề toàn cầu đã cho thế giới thấy hình ảnh một Việt Nam trách nhiệm, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia vừa đóng góp cho hòa bình thế giới.
Tinh thần “đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo” mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta. Trong thời đại ngày nay, chỉ có kiên định với những giá trị chính nghĩa và nhân văn, chúng ta mới có thể xây dựng thành công đất nước phồn vinh, hạnh phúc, giữ vững bản sắc và độc lập dân tộc. Đó là cách chúng ta kế thừa xứng đáng nhất truyền thống cha ông, mở ra con đường phát triển bền vững cho tương lai!
Xin trân trọng cảm ơn Thiếu tướng!
THỰC HIỆN: HUY THÔNG
ĐỒ HỌA: TUẤN ANH